Wednesday, March 23, 2011

CN Thứ 3 Mùa Chay A 2011

Xh. 17:3-7; Tv. 94:1-2,6-7a,7b-9; Rm. 5:1-2,5-8; Ga. 4:5-42

BÀI ĐỌC 1:
Lời Chúa trong sách Xuất Hành,
Trong sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi chết khát hay không?” Ông Môsê kêu lên cùng Ðức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” Ðức Chúa phán với ông Mô-sê : “Ngươi hãy đi lên phiá trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi dùng, để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách Ðức Chúa mà rằng: “Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay không?”.
Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA:
Câu đáp: Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”.
1. Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Ðá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm
tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
2. Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Ðấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.
3. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.

BÀI ĐỌC 2:
Lời Chúa trong thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
Thưa anh em, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Ðức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Ðức Ki-tô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 
Ðó là lời Chúa.

TUNG HÔ TIN MỪNG:
Lậy Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu độ trần gian, xin ban cho con nước hằng sống, để con không bao giờ khát nữa.


BÀI TIN MỪNG:
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, Ðức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xykha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng: Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Ðức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống! Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Ðức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống .” Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, Người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” Ðúc Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ kông bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên. Ðem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Ðức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Ðức Giê-su bảo: “Chị nói tôi không có chồng” là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ…Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” Ðức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Ðấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến- và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Ðấng Mê-si-a, gọi là Ðức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Ðức Giê-su nói: “Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc hỏi “Thầy nói gì với chị ấy ?” Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Ðến xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðấng Ki-tô sao ?” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người. Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ mới hỏi nhau: “Ðã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?” Ðức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người .” Nào anh em chẳng nói: “Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ?” Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt, đều hớn hở vui mừng. Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.” Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Ðức Giê-su nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Ðấng cứu độ trần gian.”
Ðó là lời Chúa.

2 comments:

  1. “Giờ” của Chúa Giêsu (Jn 4)

    Mười Bảy lần Tin Mừng của Gioan đề cập đến "giờ" của Chúa Giêsu. Trong nửa đầu của sách Tin Mừng, "Giờ" là một thời điểm rất được mong đợi trong sứ vụ của Chúa Giêsu, hằng liên tục nắm bắt sự chú ý của người đọc và dẫn dắt diễn tiến của tường thuật (Jn 2:04; 4:21, 5:25, 7:30, 8:20). Trong nửa sau của sách Tin Mừng, độc giả khám phá ra rằng Chúa Giêsu tiến đến "giờ" của mình chỉ trong những ngày cuối của đời mình (Jn 12: 23, 27; 13:01;
    17:01). Từ ngữ "giờ" ở đây mang ý nghĩa gì, và tại sao nó lại là tập chú duy nhất trong sứ mệnh của Chúa Giêsu?
    Một phân tích cẩn thận của Tin Mừng Thứ Tư cho thấy hai chiều kích của từ ngữ "giờ" bí ẩn này, một bắt nguồn từ trong đời sống lịch sử của Đức Kitô và chiều kích kia từ trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội.

    GIỜ MANG CHIỀU KÍCH LỊCH SỬ

    "Giờ" của Đức Kitô trước tiên và quan trọng nhất là thời gian đã định cho Cuộc Thương Khó của Người, mà trong phúc âm Gioan, cũng như trong tất cả các Phúc Âm, là thời kỳ cao điểm trong sứ vụ của mình. Trước thời gian này, các nỗ lực từ các kẻ thù của Chúa Giêsu nhằm
    bắt giữ Người đều là vô ích bởi vì "giờ" của Người chưa đến (Jn 7:30; 08:20). Tuy nhiên, đồng hồ bắt đầu tích tắc vào lúc khởi đầu của Tuần Thương Khó, khi Chúa Giêsu tuyên bố rằng "giờ" vinh quang của Người sau cùng đã đến (Jn 12:23). Mặc dù gặp khó khăn bởi các thử thách đau đớn sẽ bất thần chộp lấy Người trong "giờ" này (Jn 12:27), Chúa Giêsu đón nhận triển vọng của đau khổ như là "giờ" khi Người sẽ vượt ra khỏi thế gian này đi về với Chúa Cha trên trời (Jn 13:1). Các môn đệ của Người cũng thế, sẽ chia sẻ trong cuộc thử thách này khi "giờ" sẽ giáng tới với họ với nỗi sợ hãi và đau đớn của một người phụ nữ trong lúc lâm bồn (Jn 16: 21-22). Ở cấp độ lịch sử, như thế, "giờ" là thời gian khi Đức Kitô trải qua các đau khổ do sự phản bội và các cơn đau đớn cực độ trên thể xác, cuối cùng treo lên trên cây Thánh Giá do tình yêu đối với Chúa Cha và như là một sự hy sinh cho sự cứu rỗi của chúng ta. Chính "giờ" nhục nhã này và cái chết của Đức Kitô trong Phúc Âm Gioan là "giờ" tôn dương của Người mà sẽ trở thành cội nguồn sự sống cho thế gian.

    GiỜ MANG CHIỀU KÍCH PHỤNG VỤ
    (xin đọc tiếp phần II)

    ReplyDelete
  2. “Giờ” của Chúa Giêsu (Jn 4)
    GiỜ MANG CHIỀU KÍCH PHỤNG VỤ

    Nếu "giờ" của Đức Kitô được liên kết với các sự kiện lịch sử trong Cuộc Thương Khó của Người, nó còn vươn tới việc tưởng nhớ trong phụng vụ về các sự kiện này trong đời sống của Giáo Hội. Nhiều xác chứng về "giờ" của Chúa Giêsu từ đó được kết nối với việc phụng tự Kitô giáo.

    l. Trong Jn 2: 4, Chúa Giêsu đáp trả điều thỉnh cầu của Đức Mẹ về rượu bằng một lời khó hiểu "Giờ của tôi chưa đến." Tiền đề tiềm ẩn ở đây, có vẻ như là, khi “giờ” vẫn đang xa xôi này cuối cùng sẽ đến, Người kỳ vọng sẽ cung cấp chan hòa loại rượu ngon nhất (Jn 2: 10). Điều này có thể được đọc như là một ám chỉ đến phụng vụ, nơi mọi tín hữu trên toàn thế giới tụ họp lại để thờ phượng Đấng Kitô khi Người đổ chính mình Người vào chén thánh thể trong hình dấu rượu thấy được.

    2. Trong Jn 4: 21-23, Chúa Giêsu khẳng định rằng "giờ" đang đến của Người hoàn toàn liên hệ đến nghi thức phụng vụ và không phải chỉ với bất kỳ sự thờ phượng nào, nhưng một sự thờ phượng trong tinh thần suy tôn Đức Chúa Cha, trổi vượt hơn bất kỳ mọi sự thờ phượng được biết đến trước đây ở Samaria, hoặc thậm chí ở Israel! Sự thờ phượng đặc thù của "giờ" ở đây sẽ không bị hạn chế vào địa điểm đặc biệt là núi thánh, nhưng sẽ thực sự nâng tín hữu lên đến một tầm cao mới trên thiên quốc trong Chúa Thánh Thần (Rev 1:10, chương 4 và 5).

    3. Trong Jn 5:25-29, Chúa Giêsu nhìn đến "giờ" của mình như là một thời điểm khi những người đã chết sẽ nghe tiếng của mình và sống trở lại. Điều này, cũng thế, có các kết nối với các nghi thức phụng vụ, nơi Đức Kitô vẫn tiếp tục nói thông qua Kinh Thánh và thức tỉnh các linh hồn đang bị chìm đắm bởi tội lỗi.

    4. Cuối cùng, "giờ" của Đức Kitô sẽ đem lại một mùa gặt cho các tín hữu từ mọi quốc gia, bởi vì Chúa Giêsu, như một hạt lúa mì đã chết và được chôn trong đất, khíến cho Israel và mỗi quốc gia nảy mầm thành cuộc sống mới (Jn 12:20-24). Ân phúc này có được không chỉ thông qua cái chết của Đức Kitô, mà còn thông qua sự sống lại và nhân tính được tôn vinh của Người, đó là hạt lúa mì trở nên "bánh sự sống" cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể (Jn 6:48).

    Hai chiều kích của "giờ" là thành phần của một Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Do đó,chúng ta không thể đặt ra một phân cách giữa lịch sử và phụng vụ, giữa lễ vật hy tế của Đức Kitô dâng lên Chúa Cha trên Thánh Giá và lễ vật bí tích của Đức Kitô ban cho chúng ta trong phụng vụ. Điều này đã được ghi nhận trong Giáo Hội sơ khai, nơi mà "giờ" của Chúa Giêsu không chỉ gợi đến cuộc khổ nạn và cái chết của Người, nhưng, như trong các nghi lễ cổ xưa của Thánh Gia cô bê và Thánh Mác cô, ý niệm "giờ này" còn diễn tả lại Cuộc Thương Khó trong cử hành Thánh Thể.

    Kết hợp với các tham chiếu về Bí tích Rửa tội (Jn 3:5), bí tích Thánh Thể (Jn 6:35-58), và bí tích Hòa giải (Jn 20:23), chúng ta thấy trong Phúc Âm Gioan, "giờ" của Chúa Giêsu diễn mở trong Tuần Thánh cũng kéo dài trong suốt hàng thế kỷ và trên toàn thế giới khi Kitô hữu cử hành việc tưởng nhớ các mầu nhiệm thiêng liêng của "giờ" nói ở đây trong phụng vụ thánh của Giao Ước Mới.
    (Nguồn: Ignatius Catholic Study Bible)

    ReplyDelete